Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương, Mịt mù khói tỏa ngàn sương, Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ". Riêng ở miền Nam, người ta lại thường được nghe bài thơ có khác và chỉ có hai câu: "Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương." Hai bài thơ tả cảnh gần giống nhau: cảnh của hai cố đô thuộc hai miền Nam - Bắc.
Bức tranh duy nhất chỉ có nét thanh mảnh của cành trúc la đà trên cái nền mông lung mờ ảo của bầu trời và mặt hồ. Trong câu tiếp theo, các âm thanh hòa quyện vào nhau: Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Tiếng chuông ngân nga, tiếng gà gáy rộn rã báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Tiếng chuông chùa vang vọng giữa thinh không gợi cảm giác bình yên.
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Câu ca dao ngắt thành hai nhịp chẵn 4-4, hai vế tiểu đối cân xứng, hòa hợp như âm thanh tiếng chuông chùa Trấn Vũ và tiếng gà gáy sang canh từ làng Thọ Xương vọng tới. Chùa Trấn Vũ còn gọi là chùa Quan Thánh nằm cạnh Hồ Tây, là nơi thờ đức Huyền Thiên Trấn Vũ.
Tiếng chuông Trấn Vũ và món 'canh gà Thọ Xương'. Câu chuyện khôi hài về bài văn mà có học sinh giải thích "canh gà Thọ Xương" là món "đặc sản" ẩm thực vùng ven Hồ Tây từng gây xôn xao dư luận. Tuy thế, không phải ai cũng hiểu tường tận về vế đầu tiên của câu ca "tiếng chuông Trấn Vũ".
Chùa Trấn Vũ là một thắng cảnh nằm trên đường Cổ Ngư, một đường đê ngăn cách Hồ Tây và Hồ Trúc Bạch. Thọ Xương là tên cũ của một huyện sát thành Thăng Long, trên bờ Hồ Tây, trong đó có những làng danh tiếng như làng Bưởi, làng Thụy Khê, làng Yên Thái, vân vân
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương." Tiếng chuông ngân vang hòa cùng tiếng gà le te gáy, hai âm thanh ấy như hòa quyện vào nhau và tan ra trong màn sương mịt mờ trời thu, cảnh vật như trở nên thơ mộng hơn bao giờ hết.
W5nj. Đề bài Phát biểu cảm nghĩ về bài ca dao Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Mịt mù khói tỏa ngàn sương, Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ. Bài văn mẫu Trong ca dao – dân ca, đề tài về cảnh đẹp đất nước chiếm một mảng khá lớn. Mỗi bài là một bức tranh phong cảnh tuyệt với, ẩn chứa lòng tự hào, tình cảm gắn bó thiết tha, sâu nặng với quê hương, xứ sở. Bài ca dao nói về cảnh đẹp Hồ Tây ở thủ đô Hà Nội được lưu truyền rộng rãi và đã trở thành lời ru quen thuộc Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Mịt mù khói tỏa ngàn sương, Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ. Hồ Tây xưa kia có tên là hồ Lãng Bạc tức cái bến có sóng lớn, hay còn gọi là Dâm Đàm hồ sương mù vì thường vào lúc sáng sơm và chiều tồi, sương phủ dày trên mặt nước. Vì ở vị trí phía Tây kinh thành nên sau này nó được gọi là Hồ Tây. Xung quanh hồ là những địa danh nổi tiếng của đất Thăng Long như chùa Trấn Vũ, huyện lị Thọ Xương, làng Yên Thái vùng Bưởi chuyên nghề làm giấy vỏ cây dó được ngâm mềm, giã nhuyễn rồi cán mỏng thành giấy, phường Nghi Tàm, quê hương của Bà Huyện Thanh Quan , thi sĩ nổi tiếng của nước ta. Bài ca dao là bức tranh toàn cảnh Hồ Tây vào một buổi sáng tinh mơ. Mở đầu là nét chấm phá đơn xơ nhưng sinh động Gió đưa cành trúc la đà. Làn gió nhẹ sớm mai làm đung đưa cành trúc nặng trĩu sương đêm, tạo nên cái dáng mềm mại, nên thơ. Bức tranh duy nhất chỉ có nét thanh mảnh của cành trúc la đà trên cái nền mông lung mờ ảo của bầu trời và mặt hồ. Trong câu tiếp theo, các âm thanh hòa quyện vào nhau Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Tiếng chuông ngân nga, tiếng gà gáy rộn rã báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Tiếng chuông chùa vang vọng giữa thinh không gợi cảm giác bình yên. Tiếng gà gáy gợi lên cảm giác quen thuộc nơi thôn dã. Âm thanh của cõi đạo, cõi đời hòa quyện, làm tăng thêm vẻ tĩnh lặng của đất trời lúc đêm tàn, ngày rạng. Ai đã một lần đến Hồ Tây khi màn sương dày đặc còn bao phủ mặt hồ sẽ thấy được cái hay, cái đẹp của câu Mịt mù khói tỏa ngàn sương, để rồi thực sự sống trong tâm trạng lâng lâng thoát tục trước vẻ đẹp thần tiên ấy. Nếu ở ba câu thơ trên mới thấp thoáng hơi hướng cuộc sống thì đến câu thứ tư, hình ảnh cuộc sống lao động bỗng hiện ra rõ nét qua nhịp chày giã dó dồn dập của dân làng Yên Thái. Nhịp chày cũng là nhịp điệu hối hả của cuộc sống cần lao. Hình ảnh mặt gương Tây Hồ làm bừng sáng cả bài ca dao. Mặt trời lên xua tan sương mù, tỏa ánh nắng xuống mặt nước, Hồ Tây trở thành một gương mặt khổng lồ sáng long lanh, vô cùng đẹp đẽ! Như vậy là chỉ vẻn vẹn trong bốn câu thơ lục bát mà cảnh đẹp Hồ Tây đã được ngòi bút tài hoa của người xua vẽ thành bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ. Ẩn chứa sau từng câu, từng chữ là lòng tự hào, yêu mến tha thiết với quê hương của người dân đất Thăng Long ngàn năm văn vật. Trên khắp đất nước Việt Nam ta, ở đâu cũng có những cảnh đẹp làm xao xuyến hồn người. Xứ Lạng ở Đồng Đăng có phố Kì Lừa, Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh. Hà Nội với ba sáu phố phường, Hồ Tây, Hồ Gươm, gò Đống Đa, chùa Một Cột… Miền Trung với Đường vô xứ Nghệ quanh quanh, Non xanh nước biếc như tranh họa đồ. Xứ Huế với vẻ đẹp uy nghiêm, trầm mặc của cung điện, đền đài, lăng tẩm, của sông Hương với núi Ngự Bình. Những đêm trăng sáng, tiếng hò ngân dài trên sông nước Hương Giang Đò từ Đông Ba đò qua đập đá, Đò về Vĩ Dạ thẳng ngã ba Sềnh, Lờ đờ bóng ngả trăng chênh, Tiếng hò xa vọng nặng tình nước non. Người dân Nam Bộ tự hào với mảnh đất trù phú, mỡ màu bốn mùa hoa thơm trái ngọt, lúa chín vàng đồng Cần Thơ gạo trắng nước trong, Ai đi đến đó chẳng mong ngày về… Tất cả những câu ca ấy dù mộc mạc hồn nhiên hay trau chuốt, trữ tình đều nói lên cảnh đẹp gấm hoa của non sông đất nước và thể hiện tình yêu quê hương đậm đà, sâu nặng của nhân dân ta. Giống như bao bài ca dao khác, bài Cảnh đẹp Hồ Tây sẽ sống mãi trong đời sống tinh thần của nhiều thế hệ người Việt. Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người
Tôn Thất Thọ Từ trước đến nay đã có rất nhiều bài viết thảo luận về địa danh Thọ Xương, cũng như nguồn gốc của hai câu ca dao liên quan đến địa danh này, bởi lẽ nó đã xuất hiện trong cả hai câu, một ở Huế và một ở Hà Nội. Câu ca dao ở Huế có nội dung Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương. Thuyền về xuôi mái sông Hương Có nghe tâm sự đôi đường đắng cay! Còn câu ở Hà Nội là Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Mịt mù khói toả ngàn sương, Nhịp chày An Thái, mặt gương Tây Hồ. Tựu trung hai khuynh hướng tranh luận, đó là 1- Câu ca có nguồn gốc từ Hà Nội, bởi địa danh Thọ Xương từ thời nhà Nguyễn đã là một huyện, và hiện vẫn tồn tại; hơn nữa lại phù hợp với di tích đền Trấn Vũ hiện nay. Còn Huế thì không có địa danh Thọ Xương. 2– Khuynh hướng hai dựa vào một số tài liệu lịch sử như Đại Nam nhất thống chí của Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn, Việt sử xứ Đàng Trong của Phan Khoang …đã chứng minh rằng từ xa xưa, Thọ Xương ở Huế là tên vùng đất đối diện chùa Thiên Mụ, nguyên tên của nó là Thọ Khương hay Thọ Khang; đến đời vua Gia Long 1802-1820, do kỵ húy đế hiệu thân sinh của nhà vua Hiếu Khương Hoàng Đế nên ông đã đổi thành Thọ Xương. Năm Minh Mạng thứ 5 1824, nhà vua đã đổi thành Long Thọ Cương và hiện nay, người địa phương chỉ gọi là Long Thọ, tại đây hiện có nhà máy chế biến xi măng Long Thọ đã có từ lâu.\ Trong cuốn Sổ tay địa danh Việt Nam, tác gỉa Đinh Xuân Vịnh ghi như sau “Thọ Xương Làng, trước gọi là Thọ Khang, Gia Long đổi là Thọ Xương. Năm 1824 đổi là Long Thọ, thuộc huyện Phú Vang, Phủ Thừa Thiên trên sông Hương, nay thuộc thành phố Huế” Sổ tay địa danh …, sđd, trang 515. Trong các kho lúa ở xứThuận Hóa Huế dưới thời các chúa Nguyễn, sách Việt Sử xứ Đàng Trong ghi rõ “Ở Thuận Hóa ban đầu có 7 kho là Kho Thọ Khương huyện Phú Vang, kho Nguyệt Biều huyện Hương Trà, kho Thạch Hãn huyện Hải Lăng, kho Lai Cách huyện Minh Linh, kho An Trạch huyện Lệ Thủy, kho Trung Trinh và kho Trường Dục huyện Khương Lộc.Việt sử xứ Đàng Trong, sđd, tr 213. Ngoài ra, những nhà nghiên cứu theo khuynh hướng này đã dựa vào gia phả họ Dương để xác định rằng câu ca được lưu truyền ở Hà Nội chính là một trong những bài thơ của tác giả Dương Khuê 1839-1902 mà hai câu đầu nguyên văn là “Phất phơ ngọn trúc trăng tà Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương”. Bài thơ có tựa là Hà Nội tức cảnh và được tác giả sáng tác sau khi từ giã quan trường ở Huế để ra lại quê nhà. Tiến sĩ Dương Thiệu Tống 1925-2008 đã chép bài thơ này in trong cuốn Tâm trạng Dương Khuê và Dương Lâm của mình Nxb Văn Học,1995, đồng thời đã có nhân xét là “Có người đã sửa đổi câu đầu bài thơ này là “Gió đưa cành trúc la đà”, nhưng có lẽ là sai, vì làm mất đi ý nghĩa ngầm của toàn câu, mà chỉ còn ý nghĩa tả cảnh nổi mà thôi.” Khách quan mà nói, ta thấy về ngôn từ, cũng như về ý nghĩa thì hai bài hoàn toàn khác nhau. Câu ca dao ở Huế không có tác giả, nó diễn tả phong cảnh hữu tình, thơ mộng của miền sông Hương núi Ngự vào một buổi sớm tinh mơ khi gà vừa gáy sáng chuyển canh; trong khi bài thơ Hà Nội tức cảnh do Dương Khuê sáng tác để gửi gắm nỗi lòng của mình đối với hoàn cảnh đất nước. Trong bài này, có lẽ tác giả đã biến đổi địa danh Thiên Mụ ở Huế của câu ca dao thành ra địa danh Trấn Vũ cho hợp với phong cảnh Hà Nội. Bài thơ này được Dương Khuê được sáng tác vào khoảng thập niên 1870, sau nhiều năm sống tại Huế. Do đó có thể nghĩ rằng, câu ca dao ở Huế đã ảnh hưởng đến tứ thơ của thế, khi trở ra miền Bắc, gặp lúc thời thế nhiễu nhương, ông sáng tác bài này để biểu lộ nỗi lòng của mình. Hai câu đầu của bài thơ là mượn câu ca dao ở Huế, nhưng thay đổi địa danh cho phù hợp với phong cảnh của Hà Nội chùa Thiên Mụ đổi thành chùa Trấn Vũ, vả lại, do sự trùng hợp Hà Nội cũng có địa danh Thọ Xương nên đã không cần phải đổi địa danh này ? Gần đây, trong tập Di sản Hán Nôm Huế Huế-2003 có công bố một văn bản bằng chữ Hán thuộc loại thư tịch cổ ở làng Xuân Hòa nay là xã Hương Long, thành phố Huế. Đây là một văn bản tranh tụng về đất đai, lạc khoản đề năm Gia Long thứ 10 1811 và có đủ đặc điểm về tự dạng chữ viết thời bấy giờ. Có thể coi đây là tư liệu sớm nhất liên quan đến địa danh Thọ Xương vào đầu thế kỷ XIX. Xin được trích lại phần dịch nghĩa do nhóm tác giả Lê Văn Thuyên, Lê Nguyễn Lưu và Huỳnh Đình Kết thực hiện “Chúng tôi là xã trưởng Hạ- Hoàng Ngọc Hạ, hương mục lão Dụng- Hoàng Văn Dụng, lão Tiệp- Hồ Hữu Tiệp ở xã Nguyệt Biều phụ giới tổng Kim Long, huyện Hương Trà, xin chứng nhận như sau Nguyên năm trước, xã Dương Xuân kiện giành với xã chúng tôi về ranh giới thuộc khu vực núi Thọ Xương cũ. Phía trước nhà của cha Cứ ở vườn xứ Đỉnh Động núi ấy thuộc xã chúng tôi có một ngôi mộ tro cổ, hiện tấm bia đá khắc mấy chữ “Chôn tại núi Thọ Xương”, từng được người do Bộ phái đến khám xét thấy là thật, ghi chép làm bằng, so với giấy tờ đơn trương, sổ sách của xã chúng tôi cùng các lời khai báo đều phù hợp, đã nêu thành án chờ xử lý. Nay vâng lệnh truyền các xã, thôn, phường trong huyện phải cùng nhau thừa nhận mốc giới, làm mới sổ ruộng đất, xã Dương Xuân bèn hẹn với xã chúng tôi làm việc vào ngày mồng 8 tháng Trọng xuân 2-3-1811. Đúng ngày ấy, tập trung tại chỗ, xem thấy tấm bia vẫn còn đó. Lần kế tiếp, ngày 11 cùng tháng, hai xã lại đến, đối mặt nhau nhận ranh giới. Xã chúng tôi chịu nhận mốc dưới từ Đò Lạc, trên đến ruộng tư xứ Cửa Sĩ, còn người xã ấy cứ theo sổ cũ, không chịu mà bỏ đi. Nay tấm bia nói trên đã bị mất, nhưng vết tro ở chân bia vẫn còn dấu mới. Vì vậy xã chúng tôi bèn mời lão Kiểm, lão Tứ ở xã Cư Chánh giáp ranh; lão Thái ở xã Xuân Hòa gần cạnh, cả hai xã cùng tập trung tại chỗ bia đá ngôi mộ cổ ở dải núi Thọ Xương thuộc xứ Động xã chúng tôi để xem xét thực tế. Hỏi mệ Cứ “Ai lấy trộm bia đá?”. Mệ Cứ khai miệng rằng “Người xã Dương Xuân lấy trộm bia đá ấy đi rồi!”. Xã chúng tôi cùng hai xã đều có nghe cả, cho nên lập giấy này để làm bằng. Trên đây là giấy chứng nhận. Ngày mồng 2 tháng Hai nhuận năm Gia Long thứ 10. Người lập tờ bằng Xã trưởng Hạ – Hoàng Ngọc Hạ điểm chỉ. Những người chứng nhận Người xã Cư Chánh Lão Kiểm – Nguyễn Ngọc Kiểm điểm chỉ Lão Tứ – Nguyễn Văn Tứ điểm chỉ Người xã Dương Xuân Lão Thái – Phan Văn Thái điểm chỉ Người xã láng giềng Thầy Cường ký Lão Dụng – Hoàng Văn Dụng điểm chỉ Lão Tiệp – Hồ Hữu Tiệp điểm chỉ Người viết giấy Thầy đồ Đặc – Hồ Hữu Đặc ký” Trích Di sản Hán Nôm…, sđd, tr 253 và 259. Văn bản này đã chứng tỏ rằng, dưới thời vua Gia Long 1802 – 1820 ở Huế đã từng tồn tại một địa danh có tên Thọ Xương, đó là một vùng đất gò và núi, điều này đúng với thực tế, vì địa điểm này đối diện với chùa Thiên Mụ bên kia sông Hương. Và như thế một lần nữa có thể xác định câu ca dao “ Gió đưa cành trúc la đà…” có nguồn gốc từ Huế chứ không phải là ở Hà Nội ! ——————————- * Tài liệu tham khảo -Di sản Hán Nôm Huế, Trung tâm BTDT Cố đô Huế, Đại Học KHXHNV HN, 2003. – Phủ Biên tạp lục, Lê Qúi Đôn, Nxb KHXH, 1977 -Việt sử xứ Đàng Trong, Phan Khoang, Nxb Khai Trí Sài Gòn 1967. – Đại Nam nhất thống chí T1,QSQTN, Nxb Thuận Hóa,1992. – Sổ tay địa danh Việt Nam, Đinh Xuân Vịnh, Nxb Lao Động,1996. -Tâm trạng Dương Khuê và Dương Lâm, Dương Thiệu Tống, Nxb Văn Học, 1995 .
Ý nghĩa của từ canh gà thọ xương là gì canh gà thọ xương nghĩa là gì? Ở đây bạn tìm thấy 9 ý nghĩa của từ canh gà thọ xương. Bạn cũng có thể thêm một định nghĩa canh gà thọ xương mình 1 29 5 Canh là một phần năm của đêm, một đêm có năm canh, theo cách tính của ngày xưa Thọ Xương là một huyện của thành Thăng Long xưa, ứng với các quận Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng và một phần quận Đống Đa của Hà Nội ngày nay. Canh gà Thọ Xương là tiếng gà gáy báo canh ở huyện Thọ Xương xưa 2 20 8 canh gà thọ xươngCanh gà thọ xương Tiếng gà gáy báo sang canh lúc nửa đêm. cụm từ này ắt hẳn các bạn đều nghe qua bài ca dao Gió đưa cành trúc la đà, tiếng chuông trấn vũ canh gà thọ xương, mịt mù khói tỏa ngàn sương, nhịp chày yên thái mặt gương tây hồ. Chú ý Đừng nhầm lẫn là món canh gà nhé! 3 13 5 canh gà thọ xươngCanh gà Thọ Xương nghĩa là canh gà vùng Thọ Xương? Sai. Canh gà Thọ Xương là gà gáy điểm canh. Chú ý Đừng nhầm là canh gà vùng Thọ Xương nhé!!! ˆˆ 4 14 6 canh gà thọ xươngCanh gà thọ xương là hình ảnh xuất hiện trong 4 câu ca dao nổi tiếng của Việt Nam Gió đưa cành trúc la đà/ Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương/ Mịt mù khói tỏa ngàn sương/ Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ. Canh gà Thọ Xương chỉ tiếng gà gáy điểm canh tại vùng Thọ Xương ở phía Tây Kinh thành Thăng Long Hà Nội ngày nay -chú ý -chúng tôi làm ăn chân chính ko copy bà người khác!người bí ẩn - Ngày 08 tháng 12 năm 2022 5 12 5 canh gà thọ xươngcanh gà Thọ Xương được hiểu là tiếng Gà gáy điểm canh tại Làng Thọ Xương, vùng cố đô Thăng Long cũ. canh gà Thọ Xương được ông cha ta ghi lại và lưu truyền qua câu ca dao "Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương" 6 12 5 canh gà thọ xươngCanh gà thọ xương là hình ảnh xuất hiện trong 4 câu ca dao nổi tiếng của Việt Nam Gió đưa cành trúc la đà/ Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương/ Mịt mù khói tỏa ngàn sương/ Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ. Canh gà Thọ Xương chỉ tiếng gà gáy điểm canh tại vùng Thọ Xương ở phía Tây Kinh thành Thăng Long Hà Nội ngày nay 7 8 3 canh gà thọ xươngđây là câu nói dân gian xuất phát từ câu thơ Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông trấn vũ canh gà thọ xương. Đây là tiếng gà gáy điểm canh tại một vùng tên Thọ Xương ý muốn nói thời điểm chuyển giao sang đêm. 8 8 9 canh gà thọ xươngword class noun. ''canh gà Thọ Xương'' is a proper noun to indicate a the time from 5 pm to 7 pm in the Thọ Xương area. - Thọ Xương is an ancient distric of the capital Thang Long. another name of Thọ Xương is Vĩnh Xương. Thọ Xương district is tranfered to France in 1988 under the edict of King Đồng Khánh. from then on the name of Thọ Xương district is no long use. nowaday, there is only a alley which names Thọ Xương in Hoàn Kiếm district. -in the traditional culture of Vietname, it is popular to use twelve Chiness zodiacs to indicate different time if a day, and the world 'canh' is added in front of the Chiness zodiacs to compose a time point the Mice is from 23 to 1 the buffalo is from 1 to 3 the tiger is from 3 to 5 the cat is from 5 to 7 the dragon is from 7 to 9 the shake is from 9 to 11 the hourse is from 11 to 13 the goat is from 13 to 15 the monkey is from to 17 the chicken is from 17 to 19 the dog is from 19 pm to 21 the pig is from 21 to 23 9 3 8 canh gà thọ xươngghgffgfryh - Ngày 15 tháng 8 năm 2013 là một từ điển được viết bởi những người như bạn và tôi. Xin vui lòng giúp đỡ và thêm một từ. Tất cả các loại từ được hoan nghênh! Thêm ý nghĩa
Cảm nhận về bài ca dao sau Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Mịt mù khói tỏa ngàn sương, Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ. Bài làm Hình ảnh quê hương đất nước được nói đến nhiều trong ca dao, dân ca. Có “đường vô xứ Nghệ quanh quanh – Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”. Nơi ải Bắc xa xôi là “Đồng Đăng có phô" Kì Lừa – Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”, Huế đẹp mộng mơ có “Núi Truồi ai đắp mà cao – Sống Hương ai bới, ai đào mà sâu?…”. Và có cảnh sáng sớm mùa thu trên Hồ Tây, nơi kinh thành Thăng Long “ngàn năm văn vật” Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Mịt mù khói tỏa ngàn sương, Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ. Bài ca dao mang màu sắc một bài thơ cổ điển, đẹp như một bức tranh thuỷ mặc. Cảnh vật Hồ Tây được miêu tả thật nên thơ hình ảnh, màu sắc, đường nét, âm thanh hài hòa, sống động. Những khóm trúc ven hồ, cành lá um tùm rậm rạp, đeo nặng sương mai “la đà” sát mặt nước, sát mặt đất, rung rinh, đu đưa trước làn gió nhẹ. Từ láy tượng hình “la đà” – một nét vẽ thoáng và gợi cảm, đầy ấn tượng Gió đưa cành trúc la đà, Cây tre, cây trúc rất gần gũi, thân thuộc với con người Việt Nam. Tre, trúc là cảnh sắc làng quê. Tre, trúc là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn người thiếu nữ quê ta Trúc xinh trúc mọc bờ ao, Em xinh em đứng nơi nào cũng xinh. Sau khi tả cành trúc, tác giả nói về âm thanh gần, xa Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Câu ca dao ngắt thành hai nhịp chẵn 4-4, hai vế tiểu đối cân xứng, hòa hợp như âm thanh tiếng chuông đền Trấn Vũ và tiếng gà gáy sang canh từ làng Thọ Xương vọng tới. Đền Trấn Vũ còn gọi là đền Quan Thánh nằm cạnh Hồ Tây là nơi thờ đức Huyền Thiên Trấn Vũ. Tiếng chuông Trấn Vũ ngân lên trong sương sớm như ru hồn người vào huyền thoại, lắng hồn núi sống ngàn năm, để ta yêu hơn non nước quê nhà “Quán Trấn Vũ nắng mưa nào chuyển, lưỡi gươm thiêng còn để tích giam Rùa” Tụng Tây Hồ phú – Nguyễn Huy Lượng. Tiếng gà gáy sang canh… lại làm ta tỉnhmộng, song lại nhịp sống đời thường dân đã “Lao xao gà gáy rạng ngày, Vai vác cái cày, tay dắt con trâu…”. Cùng với tiếng gà gáy báo sáng là nhịp chày giã đó làm giấy ở phường Yên Thái vang lên rộn rã, nhịp nhàng. Lụa làng Trúc, giấy Yên Thái là sản phẩm nức tiếng kinh kì Thăng Long từ thời nhà Lí xa xưa, là niềm tự hào của những người thợ thủ công tài hoa Lụa làng Trúc vừa thanh vừa bóng May áo chàng cùng sóng áo em. Ca dao Chày Yên Thái nện trong sương chểnh choảng Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co Liễu bờ kia bay tơ biếc phất phơ Thoi oanh ghẹo hai phường dệt gấm… Tụng Tây Hồ phú Tiếng gà gáy, tiếng chày giã đó đã diễn tả nhịp sống lao động cần mẫn của nhân dân ta nơi ba mươi sáu phố phường. Qua âm thanh ấy, ta cảm nhận được cuộc sống sôi nổi của nhân dân ta một thời thanh bình, no ấm và yên vui. Nhà thơ dân gian như đang đứng trầm ngâm, lặng ngắm cảnh Hồ Tây lúc sáng sớm. Mùa thu, sáng sớm cảnh vật phủ mờ sương khói. Phốphường, làng mạc, cảnh vật, cỏ cây “mịt mờ” trong “ngàn sương” và “khói tỏa”. Sương phủ trắng bao la; mênh mông và mịt mù. Huyền ảo và thơ mộng quá. Câu thơ cổ kính, chứa chan thi vị Mịt mù khói tỏa ngàn sương. Từ láy tượng hình “mịt mờ” và hình ảnh ẩn dụ “ngàn sương” đã làm cho câu ca dao mang màu sắc cổ điển, dẫn dắt cảm xúc người đọc liên tưởng đến những vần cổ thi. Cuối bài ca dao là hình ảnh Hồ Tây trong sương sớm được ví với “mặt gương”. Biện pháp tu từ ẩn dụ được vận dụng thần tình, vẽ lên một cảnh sắc tuyệt đẹp “Mặt gương Tây Hồ”. Hồ Tây yên tĩnh mênh mông và bao la, nước trong xanh, phẳng lặng như một tấm gương khổng lồ. Hồ Tây, qua hàng nghìn năm là một thắng cảnh của thành Thăng Long cốđô của các triều đại Lí, Trần, Lê, chói lọi trong sử sách, biểu tượng thiêng liêng của hồn nước nghìn năm. Ngày nay, nó là Hà Nội, thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bài ca dao làm đẹp tâm hồn mỗi con người Việt Nam, nó làm ta thêm yêu Hà Nội. Nhớ Thăng Long nghìn xưa, lòng ta bồi hồi tự hào về nền văn hiến Đại Việt. Từ khóa tìm kiếm nhiềuhttps//hocsinhgioi com/cam-nhan-ve-bai-ca-dao-sau-gio-dua-canh-truc-la-da-tieng-chuong-tran-vu-canh-ga-tho-xuong-mit-mu-khoi-toa-ngan-suong-nhip-chay-yen-thai-mat-guong-tay-ho
News Thứ sáu, 19/10/2012, 1552 GMT+7 Chữ 'canh' trong câu biểu đạt tiếng gà báo canh, không phải là bát canh hay món canh. Cô giáo nhập viện vì món 'canh gà Thọ Xương' Cư dân mạng bán tín bán nghi trước một số bằng chứng chứng minh “canh gà” trong cụm từ “canh gà Thọ Xương” ở văn bản gốc là từ để chỉ món ăn. Tuy nhiên sự thật đã được xác minh khi Viện Nghiên cứu Hán Nôm đưa ra bản thảo đúng. Trò đùa thời Internet Những ngày qua trên các trang mạng ồn ào chuyện truy tìm nguồn gốc khái niệm “canh gà” trong câu thơ “Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương” được sách giáo khoa xếp vào thể loại ca dao. Câu chuyện bắt đầu từ sự kiện một giáo viên môn văn ở Hà Nội không sửa lỗi trong bài làm của học sinh lớp 7 khi các em diễn giải “canh gà Thọ Xương” trong bài ca dao được gọi tên Gió đưa cành trúc la đà là món ăn đặc sản. Để bênh vực cô giáo, một số cư dân mạng cho rằng người ta hoàn toàn có thể hiểu “canh gà Thọ Xương” là một món ăn gắn với địa danh Thọ Xương. Một cư dân mạng còn kể chuyện được thầy giáo cũ cho xem bút tích của nhà văn Vũ Bằng, trong đó có hai câu “Tương Bần, cà Láng, dưa La. Cá rô Đầm Sét, canh gà Thọ Xương”. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng, có một bài tục ngữ tương tự nói về các món ngon có nội dung tương tự nhưng tuyệt nhiên không có cụm từ “canh gà Thọ Xương”, đó là “Dưa La, cà Láng. Nem Báng, tương Bần. Nước mắm Vạn Vân. Cá rô Đầm Sét”. Kỳ công hơn, một cư dân mạng khác tạm gọi là nick Đ. đưa lên mạng xã hội một dẫn chứng đầy thuyết phục với những trích dẫn có địa chỉ xác thực. Theo nick Đ., nguyên bản cuốn Vân Đình Dương Khuê Thượng Thư Tiên Sinh Thi Tập hiện đang lưu trữ tại thư Viện nghiên cứu Hán Nôm có một bài thơ chữ Hán mà nghĩa gần giống với bài thơ Hà Nội tứ cảnh của danh sĩ Dương Khuê. Bài thơ có tên Tối ức Thọ Xương thang Nhớ nhất canh Thọ Xương. Dịch nghĩa Gió lay trúc phất phơ, chuông Trấn Vũ xa thẳm, quán Thọ Xương nhiều ông bạn cũ, đều đến mua canh gà hầm. Khói sương vây bủa mặt nước hồ Tây, nhịp chày kinh động làng Yên Thái, cảnh đẹp này của Hà Thành, khiến khách nhớ nhung nhất. Bài thơ Hà Nội tứ cảnh trong đó có bút tích về 'Canh gà Thọ Xương'.Các bài viết trên nhanh chóng được lan truyền trên mạng với tốc độ chóng mặt, được nhiều diễn đàn bàn tán rôm rả. Canh gà là canh gà nào? PGS-TS Trịnh Khắc Mạnh, Viện trưởng Viện Hán Nôm, khẳng định ông không tìm thấy bất kỳ một bài thơ nào có nội dung như trên trong các tác phẩm của Dương Khuê được lưu trữ tại Viện. Ông Mạnh nói “Chiều 17/10, khi được hỏi, tôi đã tìm trong cuốn Vân Đình Dương Khuê Thượng Thư Tiên Sinh Thi Tập nhưng chưa thấy bài thơ nào như trên. Tôi tiếp tục tìm lại vẫn không thấy. Tìm ở một cuốn khác, Vân Trì thi thảo mang ký hiệu VHv. 2482 thì thấy một bài thơ tiêu đề Hà Nội tứ cảnh với 4 câu thơ chữ Nôm “Phất phơ ngọn trúc trăng tà/Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương/Mịt mù khói tỏa ngàn sương/Tiếng chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ”. PGS TS Trịnh Khắc Mạnh phải và một nghiên cứu viên của Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang xem lại trước tác của Dương bản chép bài thơ này, chữ “canh” trong câu “canh gà Thọ Xương” là chữ biểu đạt tiếng gà báo canh, trong khi đó chữ canh mới là chữ biểu đạt của bát canh, món canh”. Chia sẻ về hàm ý của khái niệm “canh gà” trong câu thơ “Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương”, các nhà nghiên cứu cây đa cây đề trong giới nghiên cứu phê bình văn học Việt Nam cũng khẳng định, không thể có chuyện “canh gà” là món súp gà. PGS Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Hoành Khung nhận xét “Tôi chưa bao giờ hiểu “canh gà” trong bài thơ trên là khái niệm chỉ thực phẩm, dù vài ba năm nay có nghe ai đó đâu đó hiểu theo cách này. Việc truy tìm đến tận cùng của một văn bản hay lật lại vấn đề “canh gà” có phải là món canh gà cũng là cái hay mà các nhà nghiên cứu có thể làm, nhưng dẫu họ có tìm thấy cái gì đó chứng tỏ cụ Dương Khuê nói đến món “canh gà” thì điều đó cũng không thật sự ảnh hưởng lắm tới cách hiểu thông thường. Trong văn chương, cách hiểu chung về một văn bản chưa chắc đã là sai dù xuất xứ của nó có thể khác. Có rất nhiều sự thật văn học khác xa với cái mọi người vẫn biết, tìm hiểu để đi đến cùng cũng là cái hay”. Theo Tiền phong
"...Canh gà Thọ Xuơng" chuyện bịa như thật Có câu chuyện cười dân gian thời nay kể như sau Một sinh viên nước ngoài học tiếng Việt làm bài văn bình 2 câu thơ “Gió đưa cành trúc la đà/ Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương”; vốn từ còn non, đọc chữ thông thường thì hiểu nhưng đến chữ khó thì phải tra từ điển. Gặp chữ “la đà”, tìm trong từ điển không có, chỉ có “la” là con vật lai giữa lừa và ngựa và “đà” nghĩa là cây gỗ lớn …! Băn khoăn lắm, lại tra thêm thì thấy có từ “lao” nghĩa là phóng đi thật mau, anh ta chắc mẩm “…dễ có khi đề bị đánh máy nhầm “lao” thành ra “la” chăng ?!” – vậy là Gió đưa cành trúc lao đà – ý nói gió mạnh lắm?! Đến câu 2, gặp chữ “Thiên Mụ” – tra sách thấy chữ “thiên” là trời; anh ta dịch được ngay “Thiên Mụ” là “Mụ Trời”… Chữ “canh gà” thì dễ hiểu, hẳn là món canh nấu thịt gà. Lại tra chữ thọ xương thì “thọ” là nhận lấy. Thọ xương hẳn là hóc xương! Sẵn có khiếu làm thơ, viết xong bài văn, chàng sinh viên thêm ngay vào cuối một bài thơ diễn nghĩa “Bão thổi bay ngọn trúc./ Bay cả đà ven đường,/ Mụ trời đánh một tiếng chuông./ Canh gà húp vội hóc xương mấy lần”. Chuyện trên là tưởng tượng nhưng lại có thật… bởi đã từng có kẻ là người Việt chính gốc mà đã hiểu “canh gà” ở đây là canh thịt gà. Trước 1975, một vị dân biểu miền Nam trong dịp công cán nước ngoài đã từng giải thích với khách ngoại quốc “canh gà Thọ Xương” trong câu thơ là “Thọ Xương’s chicken soup” xúp thịt gà của Thọ Xương. “CANH GÀ THỌ XƯƠNG” VỚI “CHUYỆN THẬT NHƯ BỊA” VÀ “CHUYỆN BỊA NHƯ THẬT” Cùng chuyện “canh gà” trên, mới đây đã xảy ra một chuyện thật như bịa Tháng 10 năm 2012, một cô giáo trung học tại Hà Nội – cô đã từng đỗ thạc sĩ với điểm số 10/10 – ra đề văn cho học sinh lớp 7 yêu cầu học sinh viết đoạn văn ngắn nêu cảm nhận về bài ca dao “Gió đưa cành trúc la đà/ Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương/ Mịt mù khói tỏa ngàn sương/ Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.”. Học sinh làm bài, có em đã viết “Hà Nội còn đặc sắc với những món ăn nổi tiếng như “canh gà Thọ Xương”. Bài văn đã được cô giáo chấm và cho điểm 8+. Không rõ vì thiếu kiến thức hay chỉ vì chấm bài qua loa, cô không phát hiện lỗi của học sinh nhưng sự việc đã làm bùng lên làn sóng dư luận khá gay gắt buộc nhà trường phải tổ chức kiểm tra. Cô giáo sau khi giải trình vụ việc đã làm đơn xin nghỉ dạy… Vừa nghỉ việc về quê xong thì cô lại được bênh vực bởi một làn sóng mới nhiều người trên trang mạng đã tỏ thái độ thông cảm, tha thiết mong muốn cô trở lại trường… và đến đây lại bắt đầu một câu chuyện mới chuyện bịa như thật. Chuyện khởi đầu bởi bài “Canh gà Thọ Xương đúng là…canh gà?” đăng trên Blog Hiệu Minh1 của một độc giả có tên nick là Hocmon. Bài viết có căn cứ, có dẫn chứng rành mạch như sau “Nguyên bản cuốn Vân Đình Dương Khuê Thượng Thư Tiên Sinh Thi Tập hiện đang lưu trữ tại thư Viện nghiên cứu Hán Nôm. Sách này có chép bài thơ mang tên “Tối ức Thọ Xương thang” Nhớ nhất canh Thọ Xương của Dương Khuê. Nguyên văn viết 裊裊搖風竹, 蒼蒼鎮武鐘,壽昌多故舊, 同買燉雞湯。煙鎖西湖水. 杵驚安泰鄉. 河城斯美景, 最耐客思量. “Niểu niểu dao phong trúc, thương thương Trấn Vũ chung, Thọ Xương đa cố cựu, đồng mãi đốn kê thang. Yên tỏa Tây Hồ thủy, chử kinh Yên Thái hương. Hà thành tư mỹ cảnh, tối nại khách tư lương.” Dịch nghĩa nôm na Gió lay trúc phất phơ, chuông Trấn Vũ xa thẳm, quán Thọ Xương nhiều ông bạn cũ, đều đến mua canh gà hầm. Khói sương vây bủa mặt nước hồ Tây, nhịp chày kinh động làng Yên Thái, cảnh đẹp này của Hà Thành, khiến khách nhớ nhung nhất. Phía dưới có một dòng chữ nhỏ, chú rằng “sau khi bài này làm ra, sĩ phu tranh nhau ngâm tụng. Bà Thọ chủ quán Thọ Xương mắng tiếng, đích thân đến nhà ta xin chữ, song lại cầu ta diễn ra quốc âm ngõ hầu hiểu được trọn nghĩa. Ta liền bỏ hai câu cuối mà diễn lại rằng “Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương Mịt mùng khói tỏa ngàn sương Dịp chày Yên Thái mặt gương Tây hồ.” Thế là đã rõ nhé. Nếu tích trên có thật thì canh gà Thọ Xương đúng mà món canh gà, chẳng phải tiếng gà gáy sang canh như các nhà văn, nhà thơ đã tưởng. Phát hiện này mà đúng thì đó là sự kiện động trời trong văn học. Bác Hocmon có nhờ các anh chị nào có điều kiện ở Hà Nội, xin xác minh lại bài văn này với viện Hán Nôm dùm, có thật như vậy hay không ?. Sau khi đăng bài của “Hocmon”, HiệuMinh blog lại đăng thêm một đoạn lấy từ trang ... 59&page=11 “HiệuMinh Blog vừa tìm ra comment sau trên mạng cũng bàn về món canh gà khốn khổ Bác nào thử tìm trong thư viện Hán Nôm cuốn Vân Đình Dương Khuê Thượng Thư Tiên Sinh 144 tr., 27 x 15. Ký hiệu Thư viện Viện Hán Nôm xem có bài này không. Làm ơn chụp cả trang đưa lên cho bà con xem. “Sáng nay có cậu bạn làm trong Viện Hán Nôm bảo, trong sách Vân Đình Dương Khuê Thượng Thư Tiên Sinh 144 tr., 27 x 15. Ký hiệu Thư viện Viện Hán Nôm cũng chép bài thơ này. Xin lưu ý, Dương Khuê viết thơ bằng chữ Nôm, nỏ phải chữ Quốc ngữ. Nguyên văn viết chữ Canh là 羹 bát canh, món canh, không phải 更 canh khuya, canh chầy. Chứng tỏ canh gà là món ăn, chứ chả phải tiếng gà tiếng qué gì cả. Chắc hồi ấy các cụ đi tập thể dục từ sáng sớm, khi chùa Trấn Vũ đổ chuông, quán Thọ Xương mở hàng, các cụ rủ nhau vào ăn canh gà.”. Trang mạng phát tán. Dù ngôn ngữ của blog là lối nói thường dùng của lớp trẻ nhưng cũng khiến nhiều người kinh ngạc. Nhiều người xôn xao – kể cả các học giả, các nhà trí thức – bởi bấy lâu chữ “canh gà” vẫn được hiểu là tiếng gà báo sang canh… vậy mà nay hóa ra không phải – Canh gà lại là canh thịt gà ư ?! Nếu vậy thì việc cô giáo chấm bài văn, cho điểm 8 chưa hẳn là sai. Bài của Hocmon có nét đáng ngờ trước hết do lai lịch tác giả không rõ Hocmon chắc chắn không phải tên thật… và nếu cho là bút hiệu thì cũng không phải… vì xa lạ quá, chưa thấy xuất hiện ở trên tập san, báo chí nào, cũng chưa được trang mạng nào giới thiệu, ngôn ngữ lại có phần bỡn cợt… vậy mà nội dung lại có vẻ xác đáng bởi có kèm cả bài thơ chữ Hán, câu chữ khá chuẩn lại chỉ được đích danh cuốn Vân Đình Dương Khuê Thượng Thư Tiên Sinh, nêu đúng cả số trang, khổ sách và cả kí hiệu trong thư viện Viện Hán Nôm nữa… khiến mọi người băn khoăn không ít. Các nhà nghiên cứu thấy có trách nhiệm trước vấn đề. Để làm sáng tỏ, trước hết Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Trịnh Khắc Mạnh đã tìm ở sách Vân Đình Dương Khuê Thượng Thư tiên sinh ở Viện mà không thấy có bài thơ nào như trên. TS. Mạnh tìm thêm bài thơ chữ Nôm của Dương Khuê được nói đến thì thấy có bài Hà Nội tức cảnh trong sách Vân Trì Thi Thảo ký hiệu VHv. 2482, Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Bài thơ có 4 câu “Phất phơ ngọn trúc trăng tà/ Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương/ Mịt mù khói tỏa ngàn sương/ Tiếng chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ”… Đáng lưu ý là chữ “canh” ở đây được viết là 更chứ không phải là 羹 bát canh, món canh như blog Hiệu Minh đã nêu. Chữ 更 trong văn cảnh của bài thơ phải hiểu là canh giờ2, “canh gà Thọ Xương” là tiếng gà gáy báo canh ở Thọ Xương. Một ý kiến khác của Giảng viên Nguyễn Hùng Vỹ tại Đại học KHXH&NV Hà Nội khi trả lời phỏng vấn về câu chuyện trên “Theo như nguồn dẫn sách Vân Đình Dương Khuê Thượng Thư Tiên Sinh 144 tr., 27×15. Ký hiệu Thư viện Viện Hán Nôm thì không có bài thơ nào mang tên “Tối ức Thọ Xương thang” cả. Theo tôi, đây chỉ là một sản phẩm của “trí tưởng tượng” mà thôi, không có trong cuốn sách cổ nào hết. Đối với anh em trẻ thạo Hán Nôm thì từ cái tứ của Dương Khuê, bịa ra một bài chữ Hán na ná là không khó khăn gì …”3 Vậy là không có bài thơ nào gọi là Tối ức Thọ Xương Thang, cũng chẳng có bài thơ nôm nào của Dương Khuê lại viết chữ CANH là 羹. Đúng là chuyện bịa như thật và ai đó phải là người thông thuộc kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm thì mới biết rõ từng chi tiết sách Vân Đình Dương Khuê Thượng Thư tiên sinh được lưu trữ – đồng thời cũng phải là người giỏi Hán Nôm mới bịa ra được chứng cứ như thật. Quả là chuyện oái oăm trong làng Văn chương Việt. Nguyễn Cẩm Xuyên ————————— CHÚ THÍCH 1 ... a-canh-ga/ 2Ngày xưa chia thời gian “Đêm 5 canh, ngày 6 khắc”. Canh 1 19g – 21g, canh 2 21g – 23g, canh 3 23g – 1g, canh 4 1g – 3g, canh 5 3h – 5h. 3 ... 4Ảnh trích từ ... ngày 19/10/2012 Nguồn
tiếng chuông trấn vũ canh gà thọ xương